Advanced
Please use this identifier to cite or link to this item: https://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/58465
Full metadata record
DC FieldValueLanguage
dc.contributor.advisorDr. Lê Thị Phương Vyen_US
dc.contributor.authorLê Minh Tânen_US
dc.date.accessioned2019-01-22T08:22:24Z-
dc.date.available2019-01-22T08:22:24Z-
dc.date.issued2018-
dc.identifier.otherBarcode: 1000006396-
dc.identifier.urihttp://opac.ueh.edu.vn/record=b1028816~S1-
dc.identifier.urihttp://digital.lib.ueh.edu.vn/handle/UEH/58465-
dc.description.abstractTheo như Gebka, B., Wohar, M. E. (2013) thông qua phân tích phản ứng xung của mô hình VAR và xem xét chi tiết dữ liệu biến động hàng ngày, tác giả đưa ra một ý tưởng mới để xem xét tầm quan trọng của các cú sốc âm và dương của tỷ suất sinh lợi lên khối lượng giao dịch và xét cả tác động của các cú sốc có mức độ khác nhau. Kết quả mà các tác giả tìm ra tồn tại mối tương quan dương mạnh với độ mạnh mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi – khối lượng giao dịch. Mối tương quan này mạnh hơn đối với nhà đầu tư cá nhân và tương quan yếu đối với nhà đầu tư nước ngoài. Phù hợp với những phân tích trước đó, bài nghiên cứu đã tiến hành kiểm định thực nghiệm mối quan hệ giữa khối lượng giao dịch và tỷ suất sinh lợi của VN - INDEX, Shanghai Composite, TOPIX Index tại Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản trong 9 năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng khối lượng giao dịch có mối quan hệ đồng biến với tỷ suất sinh lợi tại thị trường chứng khoán Trung Quốc, Việt Nam điều này hoàn toàn phù hợp với các nghiên cứu trước đây, đặc biệt phù hợp với các nghiên cứu về thị trường phát triển và mới nổi. Bên cạnh đó, tỷ suất sinh lợi cổ phiếu có mối quan hệ nghịch biến với khối lượng cổ phiếu giao dịch tại thị trường chứng khoán Nhật Bản. Điều này cho thấy rằng nhà đầu tư Nhật Bản đang mất lòng tin với thị trường chứng khoán trong khoản thời gian này, sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2007. Bên cạnh đó, tại thị trường Việt Nam và Nhật Bản, cú sốc âm(hoặc tin tức xấu) trên thị trường thường có tác động mạnh và dai dẳng hơn so với cú sốc dương (hoặc tin tốt) vì nó làm cho các nhà đầu tư bị tê liệt và trở nên bi quan chán nản và thậm chí chờ đợi một cách thụ động các dấu hiệu thị trường. Bài nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng về mối quan hệ nhân quả Granger một chiều từ sự thay đổi giá chứng khoán lên khối lượng giao dịch tại thị trường chứng khoán Việt Nam và Trung Quốc.en_US
dc.format.medium42 tr.en_US
dc.language.isoVietnameseen_US
dc.publisherTrường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh-
dc.subjectCổ phiếuen_US
dc.subjectTỷ suất sinh lợien_US
dc.subjectThị trường chứng khoánen_US
dc.subjectViệt Namen_US
dc.subjectTrung Quốcen_US
dc.subjectNhật Bảnen_US
dc.subjectStocksen_US
dc.subjectRate of returnen_US
dc.subjectStock exchangesen_US
dc.subjectVietnamen_US
dc.subjectChinaen_US
dc.subjectJapanen_US
dc.titleMối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi, khối lượng giao dịch ở thị trường chứng khoán tại Việt Nam, Trung Quốc Và Nhật Bảnen_US
dc.typeMaster's Thesesen_US
ueh.specialityFinance - Banking = Tài chính - Ngân hàngen_US
item.languageiso639-1Vietnamese-
item.cerifentitytypePublications-
item.grantfulltextreserved-
item.openairetypeMaster's Theses-
item.fulltextFull texts-
item.openairecristypehttp://purl.org/coar/resource_type/c_18cf-
Appears in Collections:MASTER'S THESES
Files in This Item:

File

Description

Size

Format

Show simple item record

Google ScholarTM

Check


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.